.comment-block img { max-width: 300px !important; }

Thứ Ba, 31 tháng 12, 2013

Giấy gói quà nở hoa

Vài giờ nữa, năm cũ sẽ trôi qua. Chồng đi nhậu, con chat với bạn, mình ên ngồi nghĩ về những ngày cuối năm - mùa của những yêu thương, kéo theo đó là mùa của các loại quà tặng. Sẵn lâu lâu mới rảnh thế này, mình làm sàm một chút về chuyện giấy gói quà.

Mỗi khi đi nhà sách, bao giờ mình cũng dừng lại vài ba phút để ngắm nghía giấy gói quà. Ngoài chuyện lựa chọn giấy đẹp, tiêu chí của mình còn là giấy phải thân thiện với môi trường (vì mình đặc biệt quan tâm đến môi trường). Cho nên, dù giấy có đẹp mấy mà khó phân huỷ thì mình cũng dứt khoát không mua. Mình chỉ mua mỗi mẫu giấy đúng một tờ thôi – để khỏi đụng hàng - nhưng cứ mỗi lần đi nhà sách lại tha giấy về như thế, nên nhà mình luôn rất nhiều giấy gói quà, đủ màu sắc nóng – lạnh khác nhau. Khi cần tặng quà cho ai, mình tự tay gói. Có thể giá trị tính bằng tiền của món quà không nhiều, có thể mình gói không đẹp, thường thì không có cả nơ (vì nơ thì hay được làm từ nylon, không thân thiện môi trường), nhưng khi tự tay gói, mình cảm thấy đã gửi gắm tình cảm thật của mình vào đó.

Hôm nọ, con trai thỏ thẻ với mẹ: “Con còn tiền để dành, con muốn mua cho bạn Ng. một món quà nhân dịp sinh nhật bạn ấy”. Mình có nghe mấy đứa nhỏ cùng lớp 6A với cu cậu, đôi lần chọc ghẹo, ghép đôi con với bạn Ng. này nên hỏi: “Con có thích bạn ấy không?”. Bẽn lẽn một chút, cu cậu nói thật: “Thích lắm mẹ ạ! Ng. cũng thích con lắm!”.

Hai mẹ con đi mua quà cho bạn Ng. Chọn mãi, rất lâu, con trai mới tìm được món quà ưng ý. Nhưng mình thấy con đem về nhà, cất vào tủ mà chẳng gói ghém gì cả. Nghĩ con trai vụng về, mình thương tình bèn lấy một tờ giấy thật “xì-tin”, ngồi gói quà lại cẩn thận. Chẳng ngờ, lúc lấy quà ra định mang đi tặng, nó thảng thốt hỏi:

-  Sao mẹ lại gói? Mình cũng ngạc nhiên không kém, hỏi lại:
- Thế sao lại không gói?
Con trai bảo:
- Gói như thế trịnh trọng quá, con sẽ phải nói với bạn Ng. là “Mình có món quà này tặng Ng. nhân dịp sinh nhật”. Mà con chưa trịnh trọng như vậy được đâu, con chỉ đưa quà rồi nói: “Tặng nè, thấy đẹp không?”. Vậy thôi!

Nó vội vàng gỡ giấy gói ra ngay trước mặt mình, vứt giấy vào sọt rác. Mình bị bất ngờ nên không biết làm gì hơn là… dỗi. Nó quay sang tỏ vẻ rất áy náy rồi ôm mình vỗ về: “Sorry mẹ nha! Thông cảm đi mà! Nha, nha…!”. Đoạn hôn mình cái chụt.

Dỗi thế, nhưng rồi nghĩ lại, thấy con trai nói cũng có lý. Nó mới lớp 6, thích thích nhau chứ có phải yêu đương gì đâu! Trịnh trọng kiểu đó đúng là không hợp thật! Đến một ngày, khi con trai lớn, nó sẽ tặng bạn gái nó những món quà được gói bằng giấy có sắc màu tươi rói của những bông hoa - màu của tình yêu mà chúng dành cho nhau… Xem ra ngày ấy còn lâu, và làm mẹ thì thỉnh thoảng cũng sai! Mình hơi “quê” nên nở nụ cười độ lượng kiểu “mẹ chả chấp!”.

Ngồi vào máy vi tính, mình cứ vơ vẩn nghĩ đến chuyện đó, rồi chả hiểu thế nào lại vào Google search từ “Giấy gói quà”. Có khoảng 1 triệu 400 ngàn kết quả, nhưng mình chú ý ngay đến một vài  kết quả đầu tiên với tựa đề “Giấy gói quà có thể trồng được”.

Chuyện là Giấy gói quà đã và đang trở thành một vấn nạn ở các nước phương Tây nhất là Châu Âu, đặc biệt sau dịp lễ Giáng Sinh và Năm mới. Có vô số các món quà được tặng và chỉ trong phút chốc giấy gói quà dù có đẹp đến đâu cũng trở thành rác vụn. Đây là quả là một sự lãng phí nguồn giấy khổng lồ.

Nhưng thay vì đau đầu và tốn nhiều công sức cho việc dọn rác sau ngày lễ thì người ta đã nghĩ ra việc làm cho những tờ giấy nở hoa. Họ cấy vào dưới giấy gói quà (tất nhiên là loại giấy thân thiện với môi trường, dễ phân huỷ) những hạt giống. Người nhận quà, sau khi gỡ lớp giấy, chỉ việc đem giấy ra một mảnh đất, phủ đất lên và tưới. Vài ngay sau, nơi ấy sẽ mọc lên một vườn hoa hoặc vườn rau nho nhỏ.

Một ý tưởng thật độc đáo khi lồng một món quà vào trong một món quà. Lúc ấy, niềm vui sẽ được nhân lên gấp đôi và cứ lớn dần theo thời gian...

Thì đấy, ta cứ hay cười những người lãng mạn, đầu óc luôn ở trên mây, nhìn đâu cũng chỉ thấy hoa thấy lá. Nếu không lãng mạn thì làm sao có thể nghĩ ra điều kỳ diệu như vậy.

Đêm qua, mình nằm mơ thấy con trai đã lớn, cao và đẹp trai ngời ngời. Con mang gói quà đi tặng bạn gái. Hai đứa trao quà cho nhau rồi cùng nhau ra vườn trồng giấy gói quà. Những giấc mơ của mình vốn luôn rất nhiều màu sắc, vì vậy, trong giấc mơ hôm qua, mình cũng thấy rất nhiều màu. Những chiếc mầm khẽ cựa quậy, đâm chồi, mọc lên thành những cây hoa như trong truyện cổ tích. Mình nhìn thấy nụ cười rạng ngời của hai đứa trẻ.

Ban ngày có chuyện gì là ban đêm mình ôm hết cả vào giấc mơ rồi tô đầy màu cho nó như vậy đấy! Rõ là sến!

Thứ Tư, 18 tháng 12, 2013

IT COULD HAPPEN TO YOU

IT COULD HAPPEN TO YOU

là một bộ phim của Hollywood, sản xuất năm 1994, dựa trên một câu chuyện có thật.





Tóm tắt nội dung phim thế này:

Một buổi sáng nọ, anh cảnh sát Charlie Lang (Nicolas Cage đóng) vào tiệm cà phê. Lúc trả tiền cho bữa sáng, anh mới biết mình không còn đủ tiền để “bo” cho cô phục vụ bàn Yvonne Biasi (Bridget Fonda đóng). Anh lục túi, thấy mình có tấm vé số và hứa với cô gái rằng nếu mình trúng số sẽ chia cho cô một nửa số tiền.

Câu nói tưởng chứng như vô thưởng vô phạt ấy bỗng trở thành sự thật khi anh trúng số độc đắc. Không suy nghĩ nhiều, chàng cảnh sát quyết định thực hiện lời hứa. Yvonne Biasi – cô gái phục vụ bàn - là một người đã có gia đình, nhưng cô bị gã chồng bội bạc trộm thẻ tín dụng và tiêu hết của cô 12.000$. Cô đang đứng trước bờ vực trắng tay và nguy cơ phải ra toà. Yvonne Biasi mừng rỡ đến nỗi không còn tin vào sự thực khi anh cảnh sát nọ đến gặp mình với tờ vé số trúng thưởng. Cô như người sắp chết đuối vớ được cọc, bởi một nửa số tiền trúng số đó sẽ cứu được cả cuộc đời cô. Câu chuyện về anh cảnh sát và cô phục vụ bàn nhanh chóng lan rộng và Charlie Lang bỗng chốc nổi tiếng, trở thành tâm điểm trên các tờ báo cũng như trong các câu chuyện của người dân New York.

Với số tiền được chia, Yvonne mua lại nhà hàng mà cô đang làm thuê. Cô đặt riêng một bàn để cung cấp thức ăn miễn phí cho những người không có tiền và đặt tên nó là Charlie. Cô và anh cảnh sát dành nhiều thời gian làm việc từ thiện. Họ phân phát thức ăn cho những hành khách chờ tàu điện ngầm, tặng quà cho trẻ em lang thang…

Nhưng, muôn đời vẫn thế, những câu chuyện như vậy không thể đơn giản và suôn sẻ. Charlie đã kết hôn và hiện chung sống với Muriel, một cô vợ lẳng lơ, ích kỷ và tham lam. Không chịu nổi cái quyết định quá “ngu ngốc” của chồng, Muriel cãi vã kịch liệt với Charlie và cuối cùng đuổi chồng ra khỏi nhà. Cùng lúc đó, Yvonne cũng phải rời khỏi nhà vì gã chồng đốn mạt  gây sự, muốn cướp đoạt số tiền mà cô đang có. Số phận run rủi khiến cho Charlie và Yvonne gặp nhau ở khách sạn và tình yêu của họ như mầm cây gặp mảnh đất tốt, chỉ đợi dịp này mà nảy nở.

Chuyện gì đến cũng phải đến, Muriel và Charlie đưa nhau ra toà li dị. Do lâu nay, Muriel đã lén lút ngoại tình với một gã luật sư, nên vở kịch nhằm chiếm đoạt số tiền trúng số của Charlie đã được hai kẻ tham lam dàn dựng kỹ lưỡng. Tại phiên toà, Charlie trở thành người trắng tay. Điều đó đồng nghĩa với việc một nửa số tiền đáng ra Yvonne được hưởng cũng rơi luôn vào túi của Muriel.

Hai con người bất hạnh không còn một chút tài sản nào, bị đẩy đến đường cùng. Nhưng ở nơi đường cùng tăm tối ấy, lòng tốt của họ vẫn toả sáng. Họ vẫn chia sẻ cho một người lang thang, không nhà cửa một chút thức ăn đạm bạc của bữa tối. Ngày hôm sau, họ quyết định bỏ đi xa vài ngày để quên đi sự mất mát, trước khi làm lại cuộc đời từ hai bàn tay trắng.

Người lang thang được chia thức ăn thực ra là phóng viên ảnh của một tờ báo nổi tiếng ở New York. Ông đăng ảnh của Charlie và Yvonne lên mặt báo cùng bài viết ca ngợi hai người. Ông kêu gọi những người có lòng tốt, mỗi người hãy bỏ ra 5$ gửi vào quỹ giúp đỡ cho Charlie và Yvonne để họ thoát khỏi tình cảnh khốn đốn. Lời kêu gọi của nhà báo đầy tính thuyết phục đến nỗi vài ngày sau, khi Charlie và Yvonne trở về nhà, họ kinh ngạc và vui mừng khôn xiết khi họ nhận được một số tiền lớn, đủ để trang trải cho những mất mát và gây dựng lại cuộc đời.

Truyện phim là một câu chuyện hấp dẫn, lôi cuốn. Người xem thở phào và cảm thấy thoả mãn, khi câu chuyện kết thúc có hậu. Một câu chuyện cổ tích giữa thành phố New York hiện đại với cuộc sống bon chen, tất bật, đủ để thuyết phục chúng ta hãy tin vào những điều tốt đẹp của cuộc đời này. Dẫu có một ngày nào đó, bạn bị đẩy vào bước đường cùng thì cũng đừng mất lòng tin rằng ở đâu đó quanh ta, lòng tốt vẫn còn hiện hữu.

Xem ra, cuộc đời cần lắm những câu chuyện cổ tích!
*
*       *
Xem xong phim, tôi chợt nghĩ đến việc biết đâu một ngày nào đó, nước mình cũng có một bộ phim về lòng tốt.

Chuyện phim ấy sẽ kể rằng có một anh lái xe nhà nghèo, một lần chở chiếc xe tải đầy bia cho một hãng bia danh tiếng, bỗng gặp tai nạn, cả xe bia đổ xuống đường. Hàng trăm người, như những kẻ tham lam điên loạn, xông vào cướp hết những lon bia rơi, mặc cho anh lái xe van xin thảm thiết. Kết quả, anh lái xe phải đối mặt với việc sẽ bị buộc bồi thường gần 300 triệu đồng, một số tiền quá lớn, vượt ngoài sức tưởng tượng đối với một gia đình nghèo như anh.

Giới truyền thông vào cuộc. Khắp các trang báo đồng loạt đưa lên những hình ảnh về vụ cướp bia đáng xấu hổ, đồng thời kêu gọi những nhà hảo tâm hãy giúp đỡ gia đình người lái xe. Chỉ trong vài ngày, anh lái xe đã nhận được hơn 200 triệu đồng của bạn đọc khắp nơi gửi về ủng hộ. Hãng bia danh tiếng kia – trước sức ép của dư luận – cuối cùng cũng phải tuyên bố sẽ không bắt anh phải bồi thường thiệt hại.

Sẽ có một câu chuyện cổ tích kết thúc thật có hậu nếu không có chuyện…

…Bỗng dưng có một số người không nhỏ bắt đầu quay lại bới móc, mổ xẻ sự việc dưới con mắt đầy nghi ngờ, phán xét. Một người bạn tôi, do không chịu nổi những điều mà người ta bươi móc, đã phải viết những dòng Status đầy kinh hãi:

“Theo dõi vụ "hôi bia" đến giờ phút này thì thấy thật kinh hoàng cho lòng dạ con người, nhất là sau khi đọc những comt  trên một trang web nổi tiếng.

Người ta bắt đầu chửi anh chàng tài xế kia là tham lam, là bất lương.

Người ta suy đoán ra anh ta dàn dựng vụ việc và tiên đoán rằng anh ta sẽ còn làm thêm vài vụ việc nữa.

Người ta tức giận khi thấy anh ta nói sẽ chuyển tiền làm từ thiện vì cho rằng thế là tự dưng anh ta được thành thánh.

Người ta trù ẻo cả gia đình anh ta nếu ăn món tiền đó.

Người ta đăng cả điện thoại nhà riêng anh ta lên và kêu gọi cộng đồng kiếm đến tận nơi, gọi đến tận nhà anh tài xế để mà bắt anh ta "nhả" tiền ra.

Người ta nói chắc chắn báo chí có ăn chia với anh ta nên mới đăng số tài khoản để anh ta nhận tiền từ thiện.

Người ta kêu gọi cộng đồng làm sức ép với hãng bia để rút lại tiền bồi thường cho anh tài xế và bắt anh ta tự trả, người ta yêu cầu ngân hàng công khai khoản tiền anh ta nhận được…
Đến khi anh tài xế kia đã phải thông báo tiếp rằng anh ta sẽ chuyển khoản trả tiền lại người cho, còn lại gửi cho quỹ người nghèo thì họ bảo nhau: ăn không nổi, nghẹn họng mới nhả ra đây.

Còn nhiều còn nhiều lắm những điều mình đọc được và cảm thấy thật sự kinh hoàng về con người. Sao có thể nhem nhuốc đến như thế? Những biểu hiện của cái xấu, không chỉ là sự tham lam mà còn cả sự hẹp hòi, sự cay cú, sự hằn thù... vô lý sao cứ loang ra dần đến mức đáng sợ thế này?”… (Khánh Chi Nguyễn - Facebook)




Quả là đáng sợ. Đang mơ tưởng đến một bộ phim của xứ ta, trong đó có lòng tốt, có tình người bao dung, bỗng nhiên khựng lại như bị dội một gáo nước lạnh. Phải chăng lòng tin bây giờ quá khan hiếm? Ở đâu đó, khi mà cái ác lên ngôi, khi lòng tin bị dồn vào chân tường, dồn đến bức tử thì những câu chuyện cổ tích cũng không còn đất sống. Sợ và đau lắm!

Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2013

Hán Việt ơi, Hán Việt à

Hán Việt ơi, Hán Việt à
Có vay thì vay cho khéo
Kẻo mà…loạn ngôn!

Hồi xưa đi học, tôi thường được nghe thầy cô khuyên nên học tập cách viết của Bác Hồ. Bác viết giản dị, dễ hiểu, nếu sử dụng được từ thuần Việt thì nên sử dụng, hạn chế tối đa việc sử dụng từ Hán Việt.
Sau nhiều năm chơi đùa với chữ, tôi thấy trong một chừng mực nào đó, Bác Hồ đã đúng. Nhưng một khi xã hội phát triển, ngôn ngữ không thể là một thực thể đứng ngoài sự phát triển của xã hội. Ngôn ngữ cũng phải giao lưu, phải cọ xát, và tất nhiên ta không thể ôm khư khư cái kho từ thuần Việt vốn có. Bác Hồ có thể dùng “các cháu dân quân gái” trong một ngữ cảnh nhất định, nhưng ta không thể vô tư đưa lên các phương tiện truyền thông những cụm từ kiểu bộ đội gái, luật sư gái, nhà văn gái… Tóm lại, từ Hán Việt vẫn chiếm đến 60% ngôn ngữ và ta không thể hạn chế chế sử dụng. Có điều, sử dụng từ Hán Việt như thế nào cho đúng và cho khôn ngoan, tưởng chừng như dễ mà không phải dễ!
Lên mạng, tôi sưu tầm được bài viết này và ôm về đây để phục vụ cho trò chơi với chữ của mình. Bài viết hơi dài, nhưng có nhiều vấn đề thú vị để ta có thể suy ngẫm, đồng ý hoặc phản biện.


Những từ dùng sai trong ngôn ngữ tiếng Việt

1.- Sai vì không hiểu nghĩa gốc Hán Việt.

CHUNG CƯ. Từ kép nầy được thành lập theo văn phạm Hán Việt ví tính từ đứng trước danh từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà từ chung Hán việt không có nghĩa là chung chạ mà có nghĩa là cuối cùng. Vậy chung cư 終居 không phải là nơi nhiều người ở chung mà là nơi ở cuối cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải đổi từ chung cư thành chúng cư 衆居 thì mới ổn.

KHẢ NĂNG. “Khả năng” là năng lực của con người, có thể làm được việc gì đó. Thế mà người ta đã viết và nói những câu đại loại thế nầy: Hôm nay, khả năng trời không mưa. Khả năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh… Nghe thực là kỳ cục và đáng xấu hổ. Tôi cho rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng (capacité, capable) với khả dĩ (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng từ thuần Việt là có thể, đúng và dễ hiểu, còn từ khả năng chỉ nên dùng để nói về năng lực mà con người mà thôi.

QUÁ TRÌNH. Quá là đã qua, trình là đoạn đường. Quá trình là đọan đường đã đi qua. Nói thế nầy là đúng: “Quá trình thực hiện công việc đã gặp nhiều trở ngại. Nhưng tôi lại thấy trong sách báo câu đại loại thế nầy: “Quá trình thực hiện công tác sắp tới của tôi là sẽ rất thuận lợi”.Thực là sai lắm rồi. Trong trường hợp nầy, phải dùng chữ tiến trình, đúng cho cả 3 thì quá khứ, hiện tại và tương lai.

HUYỀN THOẠI. Người viết, kể cả những người có bằng cấp cao, không chịu học tiếng Hán, mà lại thích dùng tiếng Hán để tỏ ra “ta đây” nên nhiều tiếng được dùng sai nghĩa một cách thực buồn cười. Thí dụ, tôi rất thường nghe đài truyền hình, truyền thanh và báo chí nói “huyền thoại Pelé” “huyền thoại Maradona”.. Người có học nghe thực chướng tai, nhưng người nói chẳng ngượng miệng chút nào. Tại sao nghe chướng tai? Huyền là màu đen, nghĩa bóng là sâu xa, mờ ảo, không có thực. Thoại là câu chuyện. Vậy huyền thoại là câu chuyện mờ mờ ảo ảo, không có thực, do truyền miệng mà ra. Thí dụ chuyện bà Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, chuyện ông Thánh Gióng cỡi ngựa sắt đi đánh giặc Ân là những huyền thoại. Đằng nầy, ông Maradona, ông Pélé có thiệt 100% sao gọi là huyền. Và 2 càu thủ đó là con người sao gọi là thoại được. Nếu muốn dùng chũ huyền thoại để đề cao 2 cầu thủ đó thì phải nói thế nầy: “Cái tài của 2 ông nầy tưởng như chỉ có trong huyền thoại”. Ông bà mình thường nói: “Dốt thì hay nói chữ, có đúng trong trường hợp nầy hay không?”

HÔN PHU, HÔN THÊ. Hôn là cưới, phu là chồng, thê là vợ. Trong chữ phu và chữ thê đã có nghĩa của chữ hôn rồi cho nên gọi hôn phu và hôn thê là để chỉ người chồng người vợ là phi lý. Gọi hôn lễ (lễ cưới) hôn phối (lấy nhau) thì được. Còn nói hôn phu, hôn thê thì có thể hiểu 昬夫,昬妻 là nguời chồng u mê, người vợ u mê cũng như nói hôn quân 昬君 là nhà vua u mê vậy.

2.- Sai vì cố ý sửa nghĩa gốc Hán Việt

ĐỘC LẬP Độc là riêng một mình, Lập là đứng. Vậy theo nghĩa gốc Hán Việt, độc lập là đứng riêng rẻ một mình, không đứng chung với ai cả. Rõ ràng từ nầy là sai nếu dùng để diễn tả tình trạng của một quốc gia không lệ thuộc nước khác. Ngày nay, các quốc gia như thế đâu có đứng riêng một mình mà đều có liên hệ với nhau trong các tổ chức quốc tế. Vậy từ độc lập là sai. Tôi thấy Cụ Trần Trọng Kim, Cụ Dương Quảng Hàm dùng từ tự chủ để thay thế từ độc lập. Như thế là rất hay. Có người bảo với tôi rằng từ độc lập là do ông Tôn Dật Tiên đặt ra nên không thể bỏ được. Tại sao vậy? Ông Tôn Dật Tiên thì liên quan đến ngôn của Tàu chứ có liên quan gì đến ngôn ngữ Việt Nam. Tàu dùng sai thì chúng ta đâu có buộc phải theo cái sai của họ.

PHONG KIẾN.封建 Phong kiến gồm 2 chữ phong tước 封爵 (ban quan tước) và kiến địa 建地 (ban đất để dựng nước). Phong kiến chỉ chế độ hoàng đế phong tước cho người có công và cấp cho một vùng đất rất rộng để thành lập quốc gia, với quân đội, luật lệ và chế độ thuế má riêng biệt. Chế độ nầy hiện hữu ở đời nhà Chu bên Tàu với nước của thiên tử và nước của các chư hầu; từ nhà Tần trở đi thì chế độ phong kiến bị bị bãi bỏ và được thay bằng chế độ trung ương tập quyền. Chế độ phong kiến cũng tồn tại ở vài nước Âu châu như Pháp, chỉ vào thời Trung cổ mà thôi. Ở Việt Nam không bao giờ có chế độ phong kiến (féodalité) mà chỉ có chế độ quân chủ chuyên chế (royalisme absolu) mà thôi. Gọi chế độ quân chủ ở Việt Nam bằng từ phong kiến là sai. Có tài liệu còn bảo rằng sự cúng tế đình chùa là tàn tích của phong kiến thì càng sai hơn nữa.

TIÊU CỰC, TÍCH CỰC 消極, 積極 Hiện nay, người ta gán vào hai từ nầy ý nghĩa tốt xấu hết sức rõ rệt. Hành động nào tốt thì được gọi là tích cực; trái lại, hành động xấu thì gọi là tiêu cực. Thực ra, suy từ nghĩa gốc Hán Việt thì sự gán ép như thế là sai. Tich cực, tiêu cực tự nó không có sẵn tính chất tốt hay xấu mà chỉ ấn định cường độ của hành động mà thôi. Thí dụ, trong một đoàn đi làm việc phước thiện thì ai tích cực là tốt và ai tiêu cực là không tốt. Nhưng trong một bọn côn đồ đi tổ chức ăn cướp thì đứa nào tích cực lại là đứa xấu nhất. Trong truyện Tam quốc của Tàu, Từ Thứ, mưu sĩ của Lưu Bị bắt buộc phải về phục vụ dưới trướng của kẻ thù là Tào Tháo. Từ Thứ đã giữ thái độ tiêu cực nghĩa là không hiến mưu kế gì cho Tào Tháo. Thái độ tiêu cực nầy của Từ Thứ, từ cổ chí kim luôn luôn được khen ngợi; vậy tiêu cực có xấu đâu.

3.- Sai vì không phân biệt được tiếng Hán Việt với tiếng thuần Việt (tiếng Nôm).

QUỐC GIỖ. Tôi có đọc được câu nầy: “Ngày giỗ tổ Hùng vương là ngày quốc giỗ”. Nói như vậy là sai. Giỗ là tiếng Nôm chứ không phải là tiếng Hán Việt nên không thể đặt sau tiếng quốc được. Hãy bỏ tiếng ngày quốc giố mà dùng tiếng thuần Việt là ngày giỗ cả nước, vừa đúng, lại vừa dễ hiểu, Nơi tiếng Hán, ngày giỗ là kỵ nhật 忌日.Ở một vài tỉnh của Trung Việt, người ta gọi ngày giỗ là ngày kỵ. Ta nên dứt khoát chỉ dùng từ Nôm là ngày giỗ để cho thống nhất toàn quốc.

GÓA PHỤ. Tôi đã gặp vài lần chữ góa phụ trong sách vở báo chí để chỉ người đàn bà có chồng đã chết. Gọi như thế là sai vì tính từ góa là tiếng Nôm, không thể đặt trước danh từ phụ được. Phải gọi người đàn bà góa (toàn Nôm) hay người quả phụ (toàn Hán Việt) thì mới đúng.

ĐỆ NHẬT THÁC. Ở ngõ đi vào của một địa điểm du lịch, có hàng chữ to tướng dùng để quảng cáo “Nơi đây có đệ nhất thác”. Viết như thế là sai. Đặt 2 chữ đệ nhất (tiếng thêm nghĩa) trước chữ thác (tiếng chính), là theo văn phạm Hán Việt thì cả hai chữ đều phải là tiếng Hán Việt mới được. Ở đây, tiếng thác là thuần Nôm, thế là bậy rồi. Không có` tiếng Hán Việt nào có nghĩa thác nước. Thác theo tiếng Hán là bộc bố , nhưng đó lại là tiếng Hán thuần túy nghĩa là chưa được Việt hóa thành tiếng Hán Việt nên chưa thể dùng được. Trong trường hợp nầy, nên viết “Nơi đây có thác đẹp nhất”, vừa đúng, vừa dễ hiểu lại vừa hấp dẫn khách du lịch.

4.- Sai vì không phân biệt được văn phạm Hán Việt với văn phạm Nôm.

X QUANG. Mỗi lần có chuyện phải vào bệnh viện là tôi rất khó chịu khi nhìn thấy cái bảng “Phòng X quang” Tôi khó chịu vì cái chữ X quang nầy phạm đến 2 lỗi. Một là lỗi về ngữ pháp và một lỗi vể kiến thức khoa học. Về ngữ pháp, quang là tiếng chính, X là tiếng bổ nghĩa. Đặt tiếng bổ nghĩa trước tiếng chính thì đích thị sử dụng văn phạm Hán Việt rồi. Mà muốn dùng lối văn phạm nầy thì cả 2 chữ đều phải là tiếng Hán Việt. Ở đây X là một mẫu tự latin thì sai quá đi rồi. Về khoa học, quang có nghĩa là sáng, ở đây chỉ tia sáng. Tia sáng là tia kích thích được tế bào thị giác để tạo ra ấn tượng sáng. Trong chuỗi sóng điện từ, các tia nầy chỉ chiếm một khoảng rất nhỏ bé với độ dài sóng từ 400 nano mét đến gần 800 nano mét mà thôi. Trong khi đó, tia X (với độ dài sóng từ 0,1 đến 10 nano mét) cách tia sáng khá xa, không kích thích được tế bào thị giác thì chắc chăn không phải là tia sáng rồi. Cho nên dùng chữ QUANG cho tia X là sai be bét về vật lý sơ đẳng của lớp 12 trung học. Tôi chẳng hiểu ông “đại giáo sư tiến sĩ” nào đã bày ra cái tên X QUANG đó. Tại sao không dùng chữ “TIA X” như trước đây ở miền Nam, vừa hay, vừa đúng, vừa đại chúng, vừa thuần túy Việt Nam. Không lẽ người ta muốn dùng chữ “X QUANG” để chứng tỏ ta đây biết “nói chữ” hay sao?

BÊ TÔNG HÓA con đường. Bê tông là từ phu, hóa là từ chính. Đây cũng là văn phạm Hán Việt. Để thành lập từ kép thì cả 2 từ đơn đều phải tiếng Hán Việt. Ở đây bê tông lại là tiếng Pháp (béton) phiên âm ra, do đó nói bê tông hóa là sai. Ngoài ra, nghĩa cũng sai vì từ bê tông hóa được dùng phải được hiểu là con đường đà được biến hóa thành một khối bê tông. Vì vậy, không nên nói bê tông hóa mà nói một cách bình thường: tráng bê tông con đường, vừa đúng lại vừa dễ hiểu.

Còn một lô HÓA rất bậy bạ trong sách vở báo chi, trong chương trình truyền thanh, truyền hình như : nghèo hóa, giàu hóa, no hóa, đói hóa, khôn hóa, dại hóa, vân vân. Tội nghiệp cho ngôn ngữ Việt Nam!

NỮ NHÀ BÁO Tôi còn nhớ, trong chiến tranh I rắc, sau khi lính Mỹ bắn nhầm nhân viên tình báo của Ý bảo vệ người nữ phóng viên vừa được bọn bắt cóc trả tự do, các đài truyền hình ở Việt Nam loan tin nhiều lần và nhắc đi nhắc lại nhóm từ nữ nhà báo. Thực là quá tệ! Nhà báo là tiếng Nôm nên phải dùng văn phạm xuôi và phải nói “nhà báo nữ” Còn muốn dùng văn phạm ngược thì phải dùng 3 từ Hán Việt: “nữ phóng viên” hay “nữ ký giả”. Ban biên tập các đài truyền hình không biết điều nầy sao?

TRIỀU CƯỜNG. Từ lâu rồi, tôi thấy xuất hiện rất thường xuyên hai từ triều cường khi người ta nói đến thủy triều trên song.. Hai chữ nầy có thể thay đổi vị trí trước sau và có hai ý nghĩa khác nhau. Cường triều gồm tính từ đứng trước danh từ thì tương đương với một danh từ và có nghĩa là con nước lớn (haute marée). Triều cường thì lại là một mệnh đề gồm một danh từ triều và một động từ cương và có nghĩa là con nước đang lớn lên (la marée monte). Lúc nào cũng dùng chữ triều cường thì có thể sai hơn phân nửa trường hợp rồi. Nhưng tại sao không nói con nước lớn (danh từ) và con nước đang lên (mệnh đề) vừa đúng lại vừa phù hợp với trình độ và thói quen của đại chúng.

HẠT NHÂN. Đây là từ vật lý học chỉ các hiện tượng xảy ra bên trong cái lõi hay cái nhân của nguyên tử. Miền Nam trước đây gọi là hạch tâm. Hạch là cái hạt, tâm là cái lõi hay cái nhân bên trong . Hạch tâm là cái nhân của hạt. Đó là từ ghép theo văn phạm Hán Việt vì cả 2 từ đều là Hán Việt. Bây giờ người ta chuyển sang dùng 2 từ Nôm thì phải theo văn phạm nôm và phải gọi là “nhân của hạt” hay nhân hạt, cũng như bên ngoài gọi “vỏ hạt” chứ không thể gọi là “hạt vỏ” được. Gọi phản ứng hạt nhân, là sai với văn phạm rồi. Cần phải sửa lại: phản ứng nhân hạt mới đúng. Tuy nhiên, theo tôi, nên giữ từ phản ứng hạch tâm thì hay hơn nhiều. Từ nầy không phải là từ của giới bình dân nên cứ giữ tiếng Hán Việt, không cần chuyển sang tiếng Nôm.

TẶC. Từ Hán Việt nầy đang được dùng một cách rất bậy bạ và rất thường xuyên như bọn tôm tặc, vàng tặc, cà phê tặc, để chỉ những tên ăn trộm. Dùng như thế là phạm vào 2 điều sai. Thứ nhất là sai về ngữ pháp: một từ đơn thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép. Thứ hai là sai về nghĩa. Tặc có nghĩa là ăn cướp, đạo mới có nghĩa là ăn trộm, thí dụ đạo văn 盜文 là ăn trộm văn của người khác. Tại sao người ta không nói một cách giản dị và đúng là: bọn trộm tôm, trộm vàng, trộm cà phê. . . Cũng cần nói thêm về một từ đang được nhiều báo đem dùng. Đó là từ đinh tặc để chỉ bọn rải đinh trên đường phố. Đinh là một từ có gốc Hán Việt nhưng đã được Việt hóa hoàn toàn rồi nên ghép với từ tặc thì không ổn. Vả lại, nói đinh tặc là sai nghĩa vì từ đó có nghĩa là bọn ăn cướp đinh; thôi bỏ từ đó đi và nên nói một cách giản dị là “bọn rải đinh” thì hơn.

Còn vô số những từ sai khác cùng nguyên nhân trên đây như:
Lớp trưởng, phải sửa lại trưởng lớp,
Nhóm trưởng, phải sửa lại trưởng nhóm
Siêu rẻ, phải sửa lại rất rẻ
Siêu bền, phải sửa lại rất bên
Vi sóng, phải sửa lại vi ba hay sóng ngắn
Vân vân…

5.- Dùng từ vô nghĩa

Bệnh viện DA LIỄU. Lần đầu tiên, thấy bảng chữ nầy, thú thật tôi không hiểu là cái gì. Sau hỏi người bạn bác sĩ mới biết đó là “nhà thương chữa bịnh ngoài da và bệnh hoa liễu”. Trời đất! Da là từ thuần Việt. Hoa liễu là từ Hán Việt, sao lại nhập chung một cách kỳ cục như thế. Xét về nguồn gốc, chữ Hán Hoa liễu 花柳 có nghĩa là ổ điếm chứ không phải là một bịnh. Về sau, người ta dùng nhóm từ kép “bịnh hoa liễu” để chỉ cái bịnh lây qua đường tình dục cho những người hay lui tới các hoa liễu. Dùng riêng chữ hoa liễu cho một bịnh đã là sai rồi. Bỏ luôn chữ hoa, chỉ còn chữ liễu thôi thì càng tệ hơn nữa. Riêng chữ liễu thì có nghĩa là cây liễu. Bệnh viện da liễu tức là bệnh viện chuyên chữa cho bịnh ở da của cây liễu !!!

ĐẠI TRÀ. Tôi nhớ sau năm 1975, một người bạn dạy sử địa kể rằng, lần đầu tiên đọc sách giáo khoa từ miền Bắc đưa vào gặp câu: “Cây chè được trồng đại trà ở vùng nầy”. Anh ta hơi hoảng vì dạy sử địa bao năm mà bây giờ không hiểu đại trà là gì. Đại là lớn, còn trà là gì? Anh về lật nhiều tự điển kể cả tự điển Hán Việt ra tra thì chẳng thấy chữ đại trà ở đâu cả. Hỏi thăm mãi anh mới rõ trồng đại trà là trồng rộng rãi khắp nơi. Có lẽ ai đó nổi hứng bịa ra từ vô nghĩa đó để thay thế từ dễ hiểu và có sẵn, rồi sau đó những người khác bắt chước nói theo. Ngôn ngữ mà biến chuyển như thế thì cũng đáng buồn.

SỰ CỐ. Lại một từ vô nghĩa nữa nhưng đang được dùng một cách rộng rãi để chỉ một sự rắc rối vừa mới xảy ra. Trong tiếng tiếng Hán Việt có từ kép cố sự 故事 có nghĩa là chuyện cũ chứ làm gì có từ sự cố. Cái nghĩa mà hiện nay người ta gán cho từ vô nghĩa đó thực là lạ lùng, không thể chấp nhận được.

HOÀN CẢNH. Trong một bài báo, người ta viết: “Cô ây sống hoàn cảnh lắm”. Đố các bạn biết người ta muốn nói gì? Xin thưa, muốn nói “Cô ấy đang sống trong hoàn cảnh bi thảm”!!! Các bạn có chịu nổi với cách viết văn như thế đó không ?

ĐÔI CÔNG. Kể từ giải túc cầu thế giới tại Nam Phi, đài truyền hình ở Việt Nam bịa ra một từ mới, đó là từ đôi công và rất thường được lặp đi lặp lại. Theo dõi nhiều trận, tôi mới hiểu ý của các ông trời đó muốn nói: 2 đội chơi đôi công nghĩa là cả 2 đội đều chơi tấn công. Đôi là một cặp (tiếng Nôm), công là tấn công (tiếng Hán Việt). Vậy đôi công là một từ bậy bạ do người kém hiểu biết bịa ra mà hiệu quả rõ ràng là làm xấu đi ngôn ngữ của dân tộc mình. Có người nghĩ rằng, cứ bịa ra những từ mới là làm giàu cho ngôn ngữ. Quan niệm như thế là sai; cũng như muốn làm giàu thì kiếm được thực sự nhiều tiền chức không phải cứ nhét vào tủ các thứ giấy tờ bậy bạ mà gọi làm giàu được.

XÂY DỰNG. “Anh Hai tôi quyết định xây dựng với người yêu của mình” Các bạn đừng tưởng rằng 2 người quyết định đi xây nhà để ở nhé. Không, 2 người quyết định làm đám cưới dó. Viết văn như thế thì hết chỗ để phê bình rồi.

6.- Dùng sai nghĩa từ thuần Việt.

NGƯỠNG. Người ít học cũng biết ngưỡng là một giới hạn rất xác định, một gạch ngang rõ nét, và bước qua vạch ngang đó thì mọi việc sẽ thay đổi một cách căn bản. Thí dụ, ngưỡng cửa là một đường ngang, bên trong là phòng, bên ngoài là sân hay mái hiên chứ không còn là phòng nữa. Một thí dụ khác: khi lượng glucose trong máu tăng lên và vượt qua ngưỡng 1% thì đường thoát ra ngoài theo nước tiểu, còn dưới cái ngưỡng đó thì không hề gì. Ngưỡng có nghĩa rõ ràng như thế và học sinh nào cũng biết. Thế mà mổi đêm, trong mục dự báo thời tiết, xướng ngôn viên cứ lải nhải; nhiệt độ đạt ngưỡng từ 32 đô đến 35 độ. Nghe chịu hết nổi. Tôi không trách người xướng ngôn vì bản tin không phải do người xướng ngôn viết mà do các đấng đại trí thức trong ban biên tập viết nên.

KIÊU NGẠO. Có người nhờ tôi giải thích một câu nói trong sách báo nào đó :”Thằng A hay kiêu ngạo người khác.” Tôi không giải thích được vì không rõ câu nầy có nghĩa: “thằng A thường tỏ ra kiêu căng với người khác”, hay là “thằng A thường chế nhạo người khác”. Chắc chắn cả 2 cách giải thích đều không ổn vì dùng từ kiêu ngạo như thế là sai rồi thì không thể có cách nào giải thích câu nói cho đúng được.

TRAO ĐỔI. Từ nầy có nghĩa là đưa qua đưa lại các vật với nhau. Ngày nay người ta lại dùng từ nầy một cách sai lầm để thay thế cho từ bàn bạc hay thảo luận. Thí dụ: “Để thực hiện chỉ thị, tôi đã trao đổi với đồng chí chử tịch”

7.- Dùng từ thiếu chính xác

CHẤT LƯỢNG. Chất là cái khối chứa bên trong một vật (matière,) lượng là tính chất của cái gì có thể cân đo đếm được (quantité). Vậy chất lượng hay khối lượng là cái chất bên trong của một vật có thể đo lường được ( masse). Thí dụ: “khối lượng hay chất lượng của một vất là 1 kilo gramme”. Thế mà ngày nay người ta dung từ chất lượng để chỉ cái tính tốt xấu của một vật, không thể đo đếm được (qualité). Thí dụ: “Chất lượng của nước giải khát nầy kém lắm, uống không ngon má cò có hại cho sức khỏe nữa”.

CẢM GIÁC. 感覺 Đó là sự nhận biết của cơ thể do ngoại giới tác động vào các giác quan của cơ thể. Thí dụ: “Gió về khuya gây cảm giác lạnh. Tiếng đàn gây cảm giác êm đềm”. Ngày nay, người ta thường dùng từ cảm giác thay cho từ cảm nghĩ. Thí dụ: ‘Với tình hình nầy, anh có cảm giác thế nào?”. Thực là sai một cách trầm trọng.

THỐNG NHẤT. Thống nhất 統一 là làm biến mất tình trạng chia rẻ bắng cách gom các thứ về một mối. Ngày nay người ta lại thường dùng từ thống nhất để diễn tả sự đồng ý, cùng chung quan điểm. Thí dụ, người ta đã nói: “Để thực hiện tốt chỉ thị, tôi cần thống nhất đồng chí chủ tịch”. Nói như vậy là sai.

GIẢI PHÓNG . Giải phóng 解放 là một từ thường dùng trong lĩnh vực chính trị để chi công cuộc cởi bỏ áp bức, trói buộc cho con người. Ngày nay, người ta lại dùng một cách sai lầm từ nầy cho vật chất. Thí dụ: người ta nói giải phóng mặt bằng thay cho từ đúng là giải tỏa mặt bằng.
ĐĂNG KÝ. Đăng ký 登記 là chép vào sổ một vật được đưa đến. Thế mà ngày, người ta nói: “Tôi đã đăng ký đi nước ngoài” Nghe như người ta sẽ gói tôi lại rồi đem gởi ra nước ngoài. Với con người, không thể nói đăng ký mà phải nói: ghi danh hay ghi tên mới đúng.

8.- Từ vựng lộn xộn.

LÁI XE. Đó rõ ràng là một động từ, hay đúng hơn là một từ kép gồm một động từ và một túc từ. Tuy nhiên, ngày nay người ta cũng dùng từ nầy để chỉ người lái xe, tức là danh từ. Vì vậy, người ta có thể nói: “Sáng nay, lái xe đang lái xe gặp một lái xe khác cũng lái xe, cả hai lái xe cùng lái xe về nhà.” Thực là buồn cười. Trước đây ở miền Nam, lái xe dứt khoát chỉ là động từ, còn danh từ phải là người lái xe hay muốn nói gọn hơn thì dùng từ phiên âm Quảng Đông (?), tài xế cũng được rõ ràng minh bạch.

YÊU CẦU. Đây là một động từ. Thí dụ: “Tôi yêu cầu anh đi ngay”. Sau 75, tôi gặp ngay trong giáo án (tài liệu chính thức để dạy học) 2 chữ: mục đích và yêu cầu. Động từ yêu cầu đã biến hẳn thành danh từ.

NGHIÊN CỨU SINH. Sinh là tiếng Hán Việt. Dùng làm động từ thì sinh có nghĩa là sống, còn dùng làm danh từ thì sinh có nghĩa là con người đang sống. Thí dụ học sinh là người đi học, giáo sinh là người đi dạy. Nguyên cứu sinh là người đi nghiên cứu. Rõ ràng như vậy, thế mà tôi đã nghe người ta nói và đã thấy người ta viết những câu như “Con tôi được đi nghiên cứu sinh tại Trung quốc” Như thế là nói bậy vì lấy một danh từ làm động từ!

ẤN TƯỢNG. Theo cụ Đào Duy Anh, ấn tượng 印象(impression) là cái hình tượng do ngũ quan cảm xúc mà còn in sâu vào óc. Vậy ấn thượng là một danh từ của tâm lý học. Thế mà ngày nay người ta đem dùng làm tính từ như “cảnh đó rất ấn tượng”, và cả động từ nữa, như “tôi rất ấn tượng cảnh đó”. Hết sức bậy bạ

THẦN TƯỢNG. 神像 Từ nầy có nghĩa là hình tượng cao quý như thần. Vậy đây là danh từ nhưng, cũng như chữ trên đây, thần tượng được dùng như tính từ như “người đó rất thần tượng”, rồi cả động từ nữa “anh có thần tượng đồng chí đó không?”

TRÊN. Rõ ràng đây là một giới từ, bây giờ lại trở thành danh từ. Thí dự: “Cần phải báo cáo cho trên rõ” hay “trên bảo, dưới không nghe”.

LÀM TỐT. Tốt là một tính từ bổ túc nghĩa cho danh từ, như hạnh kiểm tốt, sức khỏe tốt. Ngày nay tốt được dùng làm trạng từ bổ túc nghĩa cho động từ, như làm tốt, học tốt, thay vi nói làm giỏi, học giỏi.

LÃNH ĐẠO. Tôi không tìm thấy chữ nầy trong các tự điển Hán Việt nhưng lại có trong tự điển của Tàu hiện nay 领导 và có nghĩa là điều khiển, hướng dẫn con đường đi. Vậy rõ ràng đây là một động từ. Tuy nhiên ngày nay người ta lại dùng làm danh từ. Thí dụ: “Lãnh đạo đã chỉ thị như thế”

Sự rối loạn về từ vựng trong ngôn ngữ thực là điều rất đáng tiếc. Từ đầu thế kỷ 20, do ảnh hưởng của tiếng Pháp, ngôn ngữ Việt Nam dần dần được minh bạch về từ vựng nên trở nên sáng sủa và rõ nghĩa, nay có biểu hiện rối rắm về từ vựng và trở nên tối tăm, có lẽ do mấy ông đi học bên Tàu về. Tiếng Tàu thì rất lôi thôi về từ vựng, ai cũng rõ điều đó.

9.- Cóp tiếng Tàu đang dùng.

LƯU BAN. Học sinh kém quá không được lên lớp thì gọi là lưu ban. Trong tiếng Tàu hiện nay, ban là lớp học nhưng với tiếng Hán Việt (gốc từ tiếng Tàu đời Đường) thì ban không phải là lớp học mà có nghĩa rất xa lạ (ban phát, hạng thứ, đem quân trở về). Do đó, dùng tiếng lưu ban để nói học sinh không được lên lớp thì không ổn chút nào. Dùng chữ lưu cấp 留級 thì gần đúng nghĩa hơn. Nhưng thôi, lưu ban, lưu cấp làm chi. Mình đã có chữ thuần Việt đã dùng từ lâu là ở lại lớp, rất hay vì phụ huynh học sinh nào cũng hiểu được.

TRANH THỦ. Đây là từ mới được đưa vào Nam sau 1975, và có nghĩa là lợi dụng tình hình để làm được việc gì đó. Thí dụ: “trong chuyến đi tham vừa qua, anh ấy đã tranh thủ kiếm chác được chút ít” Tôi đã cố tìm hiểu xuất xứ của từ nầy và nhận ra rằng từ tranh thủ không có trong tiếng Hán Việt nhưng hiện nay đang được dùng bên Tàu.

Việc đem tiếng Tàu hiện nay, phiên âm Hán Việt rồi nhập vào ngôn ngữ Việt Nam là đều điều không hợp lý vì nó sẽ làm rối rắm ngôn ngữ của mình. Nên nhớ tiếng Hán Việt có nguồn gốc tiếng Hán ở đời Đường chứ không phải là tiếng Tàu ngày nay, đã khác khá nhiều với tiếng Tàu đời Đường, về phát âm cũng như về ý nghĩa. Thí dụ,大家 , tiếng Hán Việt đọc đại gia và có nghĩa là người hay gia đình có vai vế trong xã hội, trong khi đó tiếng Tàu hiện đại đọc là dà jià và có nghĩa là tất cả mọi người. Một thí dụ khác: 東西 tiếng Hán Việt đọc là đông tây và có nghĩa là 2 phương hướng, trong khi tiếng Tàu hiện đại đọc là dòng xì và có nghĩa là hàng hóa. Cho nên tiếng Tàu ngày nay phải được xem là ngoại ngữ đối với ngôn ngữ Việt Nam và không nên nhập một cách bừa bãi vào tiếng Việt.

10.- Đảo ngược từ kép làm sai nghĩa.

ĐIỂM YẾU Từ kép nầy gồm 2 tiếng đơn ghép theo văn phạm Nôm có nghĩa là cái điểm không mạnh. Có người đem đảo ngược lại thành yếu điểm theo văn phạm Hán Việt thì lại có nghĩa hoàn toàn khác hẳn: điểm rất quan trọng.

THẤP ĐIỂM. Từ nầy thường được dùng sai một cách thực buồn cười. Cao là tiếng Hán đã được Việt hóa, nên có thể dùng theo văn phạm Hán hay Nôm cũng đều có một nghĩa duy nhất là “ở phía bên trên”. Thí dụ: điểm cao và cao điểm cùng một nghĩa. Trong khi đó thấp lại có hai nghĩa khác nhau tùy theo tiếng Hán hay Nôm. Theo tiếng Nôm thì thấp có nghĩa là ở bên dưới, nhưng với tiếng Hán thi thấp có nghĩa là ẩm ướt.. Vì vậy, khi nói điểm thấp thì đó là chỗ ở dưới thấp, nhưng khi đảo lại thành thấp điểm thì có nghĩa là nơi ẩm ướt. Thực là buồn cười khi đọc báo thấy: “giao thông giờ cao điểm, giao thông giờ thấp điểm” hay “dùng điện lúc cao điểm và dùng điện lúc thấp điểm”

11.- Đảo tư kép bừa bãi và không cần thiết.

XA XÓT. Tôi đọc được cách đảo kỳ cục trong một tác phẩm bán rất chạy trong thời gian gần đây. Nguyên câu đã viết là: “…ông Năm xa xót nhìn hai đứa trẻ….”. Đảo từ như thế là bừa bãi, chẳng nhằm lợi ích gì. Với văn vần thì có thể tạm chấp nhận sự đảo từ cho hợp thi luật; nhưng với văn xuôi thì không thể đảo từ một cách bừa bãi được.

Còn rất nhiều từ kép bị đảo xuôi đảo ngược vô tội vạ nữa: Nguy hiểm / hiểm nguy; đơn giản / giản đơn; khai triển / triển khai; từ chối / chối từ; bảo đảm / đảm bảo; bền vững / vững bền; minh chứng / chứng minh; phục hồi / hồi phục; biệt ly / ly biệt; tha thướt / thướt tha; thẩn thờ / thờ thẩn; tranh đấu / đấu tranh; thơ ngây / ngây thơ; xúc cảm / cảm xúc; quang vinh / vinh quang; kinh hoảng / hoảng kinh; ái ân / ân ái …..

Ôi thôi, nhiều quá, quá nhiều, không sao kể hết ngay tức thì được.

Có lẽ trên thế giới, không ngôn ngữ nào có các từ bị đảo ngược lung tung như ngôn ngữ Việt Nam hiện nay.

Cứ cái đà nầy, tôi e có ngày mình sẽ đọc được một câu thế nầy: “Người sĩ-chiến sinh-hi ngoài trận-mặt để vệ-bảo quốc-tổ, dân-nhân ở phương-hậu phải tỏ lòng ân-tri với các hùng-anh sĩ-liệt”!!!

12.- Ghép từ bừa bãi.

KÍCH CẦU. Đó là nhóm từ “kich thích nhu cầu tiêu thụ” được ghép cho ngắn lại làm cho nghĩa trở thành hết sức tối tăm. Nghe từ ghép “kích cầu”, tôi cứ tưởng công việc của mấy ông công chánh đang thực hiên ở dưới sông. Cách ghép nấy nghe rất chướng tai nhưng lại rất phổ biến hiện nay.

GIAO HỢP. Có một chuyện ghép từ rất khôi hài mà người ta thường hay kể lại. Chuyện thế nầy: Đồng chí giám đốc phài một nữ nhân viên qua một xí nghiệp bạn với lời dặn đò cẩn thận: “Cô hãy sang đó và cố gắng thuyết phục cho họ chịu giao hợp nhé”. Ý đồng chí giám đốc muốn nói giao hợp có nghĩa là giao thiệp và hợp tác; không biết cô nữ nhân viên có hiểu đúng ý đồng chí giám đốc hay không

13.- Dùng từ dao to búa lớn

CHIẾN. Đá bóng chỉ là một trò chơi thể thao thuần túy thế mà các xướng ngôn viên và bình luận viên của chúng ta luôn luôn gọi đó là cuộc chiến. Cuộc chiến thì phải có đổ máu, phải có quyết tâm tiêu diệt kẻ thù hay ít ra làm cho kẻ thù phải khốn đốn. Một hôm đi ngang qua sạp báo tôi thấy một tờ báo chạy một cái tựa rất lớn ở trang nhất: “nội chiến ở bán đảo Ibérique”. Tôi giật mình không hiểu tại sao giữa hai nước anh em Tây ban nha và Bồ đào nha lại nổ ra chiến tranh. Tôi vội vã móc tiền ra mua ngay tờ báo đó rồi chạy nhanh về nhà để đọc. Đọc xong, tôi ngã ngửa, Thì ra, trong một cuộc bốc thăm do FIFA tổ chức, hai đội tuyển bóng tròn của Tân ban nha và Bồ đào nha gặp nhau trong cuộc chơi play-off. Thế mà người ta dám gọi là nội chiến. Xin chào thua cách dùng ngôn từ Việt Nam ngày nay.

CHIẾN ĐẤU. Tôi đã từng nghe nói: “Chúng ta phải cương quyết chiến đấu với tư tưởng sai trái”. Nghe thực đáng sợ.

NGÀI. Đã có lúc, nhân danh lập trường giai cấp, lập trường ta bạn thù, người ta gọi các lãnh tụ của nước tư bản bằng thằng nọ thằng kia. Bây giờ, chúng ta chơi với tư bản thì ai người ta cũng gọi bằng “ngài”. Ngài thủ tướng, ngài đại sứ, ngài nghị sĩ, vân vân. Nghe có vẻ nịnh bợ quá đi thôi.

THAM QUAN. 參觀 Đi chơi để ngắm cảnh thì gọi là tham quan, có nghĩa là tham dự vào một công cuộc xem xét, nghiên cứu. Gọi thế mới hách chứ.

NGHIÊN CỨU SINH. Đi học thêm ở ngoại quốc, chuyện quá tầm thường, nhiều khi lợi dụng làm chuyện bậy bạ, lại tự tâng bốc mình là đi nghiên cứu.

14.- Dùng từ Hán Việt thay từ Nôm một cách kỳ cục.

KHẨN TRƯƠNG Một đồng nghiệp của tôi định cư tại Uc từ năm 1975. Cách đây vài năm, thầy về Việt Nam lần đầu tiên và dùng tàu hỏa ra Hà nội thăm quê. Giữa khuya, tàu đến ga Đồng hới thuộc tỉnh Quảng bình. Đang ngủ say, bỗng thầy giật mình tỉnh dậy vì tiếng loa “… hành khách khẩn trương lên”. Thầy hoảng hồn phóng xuống giường, chạy ra khỏi buồng của toa xe vì tưởng xe trật đường rầy hay có hỏa hoạn xảy ra. Nhưng không, nhân viên trên toa tàu chỉ nhắc nhở hành khách nào xuống tàu ở ga nầy thì nhanh lên, thế thôi! Tội nghiệp, thầy Phụng hoảng hồn cũng phải vì ở miền Nam trước đây, ngươi ta ăn nói một cách giản dị và chỉ hay dùng tiếng Hán Việt trong văn chương và khi có việc nghiêm trọng mà thôi.

BÁO CÁO. Một người bạn đã nói với tôi: “Báo cáo anh, chiều nay tôi phải lên xe về Hà nội”. Tôi nghe chữ báo cáo thì cứ tưởng anh ta đang nói với một vị tư lệnh trên chiến trường.

15.- Thay từ Hán Việt thông dụng bằng từ Nôm bất hợp lý.

MÁY BAY LÊN THẲNG. Cái loại máy bay có thể bay lên mà không cần phi đạo, ngày trước người miền Nam, từ thành thị đến thôn quê, từ người có học đến người thất học, đều gọi bằng một cái tên rất gọn là trực thăng. Sau 1975, người ta sửa lại là máy bay lên thẳng, không hiểu lý do tại sao.

LÍNH THỦY ĐÁNH BỘ. Ngày trước miền Nam có một binh chủng đặt tên là Thủy quân lục chiến. Đó gần như là một danh từ riêng. Sau 75 thì sửa lại là lính thủy đánh bộ cho có vẻ nôm na, dù thủy và bộ vẫn là tiếng Hán Việt. Có người bảo rằng cái gì của ta thì dùng tiếng Hán Việt mới bảnh, còn cái gì của kẻ thù thì dùng tiếng Nôm để làm giảm giá trị. Nếu quả đúng như thế thì đó thực là một quan niệm hết sức sai lầm và xúc phạm một cách trầm trọng đến giá trị tiếng thuần Việt của dân tộc mình.

16.- Chưa có được những từ thỏa đáng cho khoa học và kỹ thuật hiện đại.

COMPUTER dịch là máy vi tính là không thỏa đáng. Máy vi tính có nghĩa là máy dùng làm những phép tính rất nhỏ. Chức năng của computer không phải chỉ như thế. Xin để dành cho các nhà chuyên môn về kỷ thuật và các nhà ngôn ngữ nói chuyện với nhau để chọn từ cho chính xác.

INFORMATION TECHNOLOGIE dịch là tin học, cần xét lại 2 điểm. Thứ nhất, tecgnologie là một kỷ thuật, dịch bằng một chữ học trơ trọi thì không ổn. Thứ hai, muốn dùng từ kép “tin học” thì 2 từ đơn phải đều là tiếng Hán Việt. Nhưng tin là tiếng Nôm còn tín mới là tiếng Hán Việt. *ON LINE, OFF LINE, dịch là trực tuyến và ngoại tuyến thì e không ổn. Ở tiếng Mỹ, on và off là 2 từ đối nghịch nhau thì dịch sang tiếng Việt cũng cần 2 từ đối nghịch nhau mới được. Cho nên dùng 2 từ trực và ngoại thì chẳng ổn chút nào. Một lần nữa, chúng ta chờ đợi sự bàn bạc giữa các chuyên viên kỹ thuất và ngôn ngữ.

(trich TrieuThanh Magazine)